Chương 3.
Nói xong, toàn bộ người trên bè đều
lập tức im lặng. Mỗi người tay cầm vũ khí của mình, mắt nhìn về phía những chòi
gác treo ở hai bên vách đá hẻm núi. Đó là những chòi canh bằng gỗ đá giản đơn
xây dựng giữa lưng chừng vách núi, từ trên cao nhìn xuống, khiến những kẻ xuôi
theo giữa dòng bên dưới hẻm núi là bọn tôi có cảm giác vô cùng uy hiếp. Tiếng
tù và trầm bỗng dần dần ngừng lại, chúng tôi cũng biết, tin tức bọn tôi tiến
vào thung lũng đã không còn là điều gì bí ẩn nữa.
Sau khi tiến vào khu vực này, dòng
chảy của sông trở nên chậm lại, mặt nước dần khoan thai, tôi nhận thấy trên
vách đá dựng đá có mọc đầy một loại cây leo rễ chùm, quấn quanh các bụi cây và
các tảng đá, có một số mọc men theo góc nhô ra của vách đá (chính là phần đỉnh
vách đá nhô ra ngoài so với phần chân vách đá, giống như một mái hiên vậy.),
treo lơ lửng xuống dưới, xù xì như cành cây đa, to như rễ khí, từng sợi dây leo
mọc xen lẫn với những thực vật kí sinh khác nhỏ hơn.
Đây là nguyên liệu mà các dân tộc
thiểu số dùng để chế tạo giáp mây thời cổ đại đây mà, dùng nó để bện dây thừng
thì bền chắc cực kỳ, tôi biết dân bản xứ gọi nó là dây leo rết(*).
Chẳng mấy chốc, tôi liền nhìn thấy một
sợi thừng bện từ loại dây leo này vắt ngang không trung giữa hai vách đá, đây
là cây cầu đi lại duy nhất nối liền hẻm núi của dân bản địa suốt mấy trăm năm
qua – một sợi thừng to bằng cái cánh tay. Nơi đây là một bản làng lớn rồi, tôi
có thể nhìn thấy ở phía xa xa còn có ba cây leo già cao thấp khác nhau.
Để bện một sợi thừng mây, cứ mười
thước lại mất đến ba tháng, mỗi thừng mây ở đây gần như phải mấy đến mấy năm để
bện từng tầng một, ngâm ngập trong mỡ bò, rồi bọc một lớp da trống lên. Rắn chắc
hơn cả dây sắt.
Ánh mắt mọi người không ngừng quét
qua quét lại hai đầu sợi thừng, ngay cả Muộn Du Bình cũng mở to mắt, đều là người
từng trải, biết lúc này quan sát kỹ chút, lúc sau có thể cứu được cái mạng.
Tôi nhân cơ hội này, nhìn xem quần
áo và hai tay mình.
Đây là ký ức của ai, tôi phải làm
rõ.
Tôi thấy hành lý của mình, đó là một
cái gùi mây, bên hông còn đeo một khẩu súng Tây, là loại súng kíp, nặng trình
trịch, đã nạp đầy thuốc súng và đạn chì. Gùi mây cao đến tận đầu gối, tôi nhận
ra mình là một người đàn ông, như thế thì cái gùi này cũng đã đủ rồi.
Đôi ủng tương đối cao, cũng là kiểu
Tây, trên có miếng vá, xà cạp buộc giầy rất chặt. Tôi nghĩ thầm, chẳng lẽ mình
là một người Tây à, bèn ngẩng đầu nhìn thấy ngón tay cái của mình có đeo một
cái ban chỉ bằng mã não. Kẽ ngón tay đen sì, ngâm đầy một thứ dầu mỡ nào đó,
nhìn màu sắc bàn tay, tôi yên tâm lại – vẫn là một gã da vàng. Nhìn kẽ ngón tay
chắc là có liên quan với công việc của tôi, độ dài ngón tay rất bình thường. Điều
này ít nhiều làm tôi có chút thất vọng.
Bè đi qua sợi thừng đầu tiên, anh bạn
dùng móc câu kia bèn hỏi: “Mấy bộ rồi?”
“Từ khi vào hẻm núi, nghe tiếng tù
và kia, đến đoạn giữa cây cầu khỉ đầu tiên này là tổng cộng hai ngàn tư bộ, cầu
khỉ đầu tiên là bảy trăm bộ.” Gã thanh niên trí thức áo trắng kia nói.
“Cầu khỉ này qua thế nào?”
“Treo mình mà trượt như thoi, trên
thừng mây bôi toàn mỡ, đến khỉ còn chẳng đứng được.” Cậu bé người Di có vẻ căng
thẳng vô cùng, kéo búi tóc mình xuống. “Thừng đầu tiên này gọi là thừng treo đầu,
bình thường không dùng, bao giờ trong bộ tộc có chiến tranh, hoặc là trong tộc
có kẻ phạm tội nặng, sẽ chặt đầu treo ở trên thừng này, người ra vào thung lũng
đều có thể nhìn thấy. Chúng ta nếu việc không thành, vậy thì cứ gặp nhau trên
thừng treo đầu rồi.”
“Điềm xấu quá, nếu không thì để bà
cô mày nhân nửa đêm trèo lên đốt trụi sợi thừng này đi.” Trong nhóm người có một
giọng nữ vang lên. Tôi theo tiếng nhìn lại, thấy một phụ nữ tóc ngắn mặc trang
phục người Di ngồi ở cuối bè. Người phụ nữ da hơi ngăm đen, nhưng đôi mắt cực kỳ
lẳng lơ, tuổi không trẻ nữa, khoảng chừng ba bảy ba tám rồi. Nhưng vẻ mặt thì vẫn
là của một cô gái trẻ. Nói là xấu thì không hẳn, nhưng chỉ là một phụ nữ trưởng
thành lại có vẻ mặt ngây thơ, nhìn trông yêu quái quá.
Cô ta không phải người Di, ngũ quan
rõ ràng là người Hán điển hình, bộ quần áo này chắc chỉ là mặc vào thôi. Tôi
chú ý đến tay cô ta, cực kỳ mềm mại, không giống người làm việc nặng.
“Con điếm thối, thừng trong đũng quần
tao cũng trơn nhẵn lắm, đêm nay mày cứ đốt sợi thừng này trước đi.” Anh bạn Móc
Câu cười ha hả. Người đàn bà kia không chút để tâm, mà lại giơ chân cọ lên tráp
đựng dao trên người Muộn Du Bình: “Cọng rễ già quắt kia cứ để dành cho mẹ mày đốt,
bà đây chỉ khoái chồi non mơn mởn cứng cáp thôi.”
Muộn Du Bình liếc nhìn cô ả một cái
rồi lơ luôn, gã thanh niên trí thức áo trắng bên cạnh liền bật cười âm hiểm.
Sau đó, tôi liền cảm thấy bàn tay phụ nữ từ phía sau vói vào trong đũng quần
tôi. “Chỉ cần là chồi non cứng cáp, bao nhiêu cũng được, bà đây phục vụ tất.
Chàng trai trẻ này, đũng quần sao mà lạnh thế, không phải nghe chị đây nói mấy
câu liền bắn ra rồi đấy chứ.” Vừa nói xong, cô ả liền hét lên một tiếng, rút phắt
tay về. “Rắn!”
Tôi liền cảm thấy dưới đũng quần có
cái gì uốn lượn động đậy, từ eo của tôi trườn lên chui vào tay áo tôi, rồi từ
trong tay áo trườn ra ngoài, đó là một con rắn nhỏ màu đỏ tươi như máu, cuộn
tròn trên tay tôi. Tôi lần đầu tiên mở miệng nói, nghe được giọng nói chính
mình: “Đừng chạm vào tôi.”
(*) dây leo rết, thực ra là hoa tiêu
nhiều lá, chi Sẻn, họ Cam quýt, tên khoa học là Zanthoxylum multijugum Franch.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét